Sử gia Thomas Ahern - cựu sĩ quan CIA trong 35 năm, về hưu năm 1989, từng có năm nhiệm kỳ hoạt động cho CIA tại châu Á, trong đó có Đông Dương và từng giữ chức Trưởng Văn phòng CIA tại châu Phi, Trung Đông và châu Âu - là tác giả bộ tài liệu mật này.
Ghi chú rằng “bộ tài liệu sáu phần này chỉ phân tích trên quan điểm cá nhân chứ không đại diện cho quan điểm tổng hành dinh CIA hay bất cứ bộ phận nào của cơ quan tình báo này” nhưng, trên cơ sở tài liệu gốc (lưu trữ tại tổng hành dinh CIA) về hoạt động của Văn phòng CIA ở Sài Gòn trong cuộc chiến tranh Việt Nam và các cuộc phỏng vấn các nhân viên then chốt của CIA từng tham chiến ở Việt Nam, Thomas Ahern tái hiện khá trung thực và đưa ra những phân tích sắc sảo đối với hoạt động của CIA tại Nam Việt Nam.
Bộ tài liệu được Giám đốc Trung tâm Việt Nam học (thuộc ĐH Công nghệ Texas) đánh giá thuộc loại “lâu nay người ta chỉ được thấy trong tiểu thuyết hoặc phim tình báo, song nó hoàn toàn là sự thật sau khi được giải mật”.
Kỳ I: Sai lầm
Những căn cứ cho thấy kết cục bi thảm chắc chắn sẽ xảy ra đối với quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và việc thất thủ Phước Long (ngày 6/1/1975), Ban Mê Thuột (ngày 12/3/1975), dồn dập xảy ra khiến các nhân viên CIA ở Văn phòng Sài Gòn bứt rứt khó chịu và không khí ấy ngày càng lan rộng.
Dự đoán của trùm CIA ở Sài Gòn Thomas Polgar đưa ra trong báo cáo ngày 26/2/1975 về sự tấn công hạn chế của quân đội Bắc Việt vào mùa xuân (Polgar và Tổng hành dinh CIA đều nhận định Bắc Việt sẽ tấn công vào mùa hè năm 1975 và kéo dài sang năm 1976 để gây áp lực lên cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ) là hoàn toàn sai lầm.
Ngày 10/3, quân đội Bắc Việt tấn công Ban Mê Thuột, Plâyku cũng bị đe dọa. Donald Nicol, trưởng biệt đội CIA đồn trú tại đây, viết trong báo cáo hàng ngày về Văn phòng CIA Sài Gòn rằng “tất cả đổ sụp trong một đêm”.
Ngày 12/3/1975, pháo cao xạ của Bắc Việt bắn hạ một máy bay DC-4 của VNCH ngay ngoại ô Plâyku. Nhưng Nicol không hề nhận được bất cứ phản ứng nào từ Văn phòng CIA Sài Gòn về thông tin trong báo cáo của mình về tình hình xấu đi của quân lực VNCH tại Plâyku, cũng như không hề nhận được yêu cầu hoặc hướng dẫn về khả năng di tản.
Ông ta buộc phải tham khảo ý kiến của Robert Chin, trưởng bộ phận CIA đóng tại Nha Trang. Ngày 13/3, một ngày trước khi Nicol đáp máy bay về Nha Trang, ông ta triệu tập một cuộc họp của tất cả sĩ quan Mỹ đang có mặt tại Plâyku và tất cả đều thấy rõ mối hiểm nguy về cuộc tấn công quy mô của quân đội Bắc Việt.
Cuộc họp quyết định một cuộc di tản bằng đường hàng không cho những người đang phục vụ trong quân đội VNCH có nguy cơ bị trả thù. Đại tá Lê Khắc Lý, tham mưu trưởng Vùng 2 chiến thuật, làm ngắt quãng cuộc họp bằng cú điện thoại cho Nicol để thông báo tình trạng quân đội VNCH ở Plâyku rất tồi tệ và yêu cầu người Mỹ phải rời khỏi đây ngay.
Đại tá Lý cũng nhắc đến việc tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Vùng 2 Chiến thuật, sẽ có mặt trong cuộc họp khẩn với Tổng thống Thiệu vào ngày hôm sau tại Cam Ranh. Lý thông báo rằng một kế hoạch hành binh bí mật của tướng Phú đòi hỏi ông ta phải có mặt ở Qui Nhơn, và Lý cam đoan rằng, Nicol sẽ được giải thích rõ hơn khi tướng Phú trở lại Plâyku.
Nicol lập tức báo với chi nhánh CIA tại Nha Trang về những tin mật vừa thu thập được nêu trên. Ngày 14/3, khi chuẩn bị rời Plâyku, Nicol nhận được tin từ bộ phận CIA tại Nha Trang rằng đơn vị đồn trú tại Qui Nhơn đã xác minh tin của Nicol.
Mặc dù nhân viên CIA ở đó không trực tiếp thấy bóng dáng tướng Phú, nguồn tin của họ quả quyết rằng tướng Phú đã đến chỉ huy sở của một sư đoàn quân VNCH đồn trú tại Qui Nhơn.
Vài ngày sau, khi Nicol rời Plâyku, một nhân viên CIA là Fred Stephens đã viếng thăm tổng hành dinh Vùng 2 chiến thuật với hy vọng thu thập được tin tức về cuộc họp của tướng Phú tại Cam Ranh. Stephens gặp đại tá Lý nhưng Lý không đủ thời giờ để thuật lại sự kiện cuộc họp đó vì ngay lúc ấy Tướng Phú bước vào.
Stephens nhận thấy Tướng Phú có vẻ hoảng sợ, nhưng ông ta cũng không hề nhắc đến cuộc họp ở Cam Ranh. Stephens nhận định rằng, chỉ việc bầu đoàn quân đội VNCH tháo chạy khỏi Cao nguyên đã đủ khiến Tướng Phú run rẩy. Vậy là Stephens tay trắng khi rời bộ chỉ huy Vùng 2 chiến thuật.
Sáng hôm sau ông ta nhận ra rằng những chiếc máy bay chiến đấu bình thường vẫn đậu ở sân bay Plâyku đã biến mất. Stephens cũng chứng kiến cảnh tháo chạy hỗn loạn của binh lính ở ngay tại tổng hành dinh Vùng 2 chiến thuật. Stephens mất đứt một tiếng rưỡi đồng hồ trước khi đến được phòng của đại tá Lý.
Lý kéo Stephens ra khỏi phòng và không giấu giếm rằng Tổng thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú rút lui khẩn cấp, bỏ ngỏ Plâyku và Kontum cho Bắc Việt.
Trong trường hợp này Lý dứt khoát phải nghe theo chỉ huy của mình và giấu quyết định này với người Mỹ. Chia tay Lý, Stephens báo cáo tóm tắt tình hình ngay với Earl Thieme, trưởng phái bộ cố vấn Mỹ ở Vùng 2 chiến thuật, và ông này lập tức điện thoại tới Tướng Phú.
Ông Phú thừa nhận với Thieme những mối đe dọa với tổng hành dinh quân đoàn 2 của ông ta, nhưng không thừa nhận có lệnh rút lui khỏi Plâyku và Kontum. Tuy nhiên Tướng Phú nhắc lại đề nghị mà đại tá Lý đã đưa ra rằng người Mỹ nên rời khỏi Plâyku ngay.
Stephens chắp nối thêm thông tin này vào báo cáo tình báo của ông ta gửi về Văn phòng CIA tại Sài Gòn với đề xuất: Tất cả người Mỹ buộc phải di tản lập tức! Nhưng trùm CIA tại Sài Gòn Polgar vẫn tỏ ra nghi ngờ về bản báo cáo. Trong khi đó Robert Chin đã mất hai nhân viên người Mỹ trong Vùng 2 chiến thuật nên Chin cùng với Moncrieff Spear, Tổng lãnh sự Mỹ tại Nha Trang, thuyết phục Polgar rằng nhân viên Sứ quán Mỹ được phép di tản tất cả người Mỹ khỏi Plâyku và Kontum.
Chin quyết định trưng dụng máy bay vận tải của hàng không Mỹ và chiếc máy bay đầu tiên đáp xuống Plâyku ngay chiều hôm đó. Stephens và hầu hết cộng sự của ông ta cùng với những cố vấn Mỹ khác lập tức lên chuyến bay đó.
Riêng viên sĩ quan truyền tin của Stephens đồng thời là nhân viên của Nha An ninh Quốc gia VNCH tại Plâyku lại năn nỉ đòi đợi đi chuyến bay thứ hai theo kế hoạch mà người Mỹ đã hứa và ấn định.
Rời Plâyku ngay chiều hôm ấy, cả toán nhân viên CIA đáp xuống Nha Trang cùng với tất cả vũ khí, điện đài, máy truyền tin mã hóa và quân phục nai nịt trên người. Ngay sáng hôm sau, từ trên máy bay Conrad LaGueux, Phó Văn phòng CIA Sài Gòn tận mắt chứng kiến (và chụp ảnh) cuộc tháo chạy hỗn loạn và thê thảm của quân đội VNCH khỏi Cao nguyên trên tuyến đường từ Plâyku về Phú Bổn.
Kỳ II: Đổ lỗi
Trong khi Stephens và cộng sự lên máy bay rời Plâyku thì Polgar, Trưởng Văn phòng CIA Sài Gòn, lại soi xét các báo cáo để cố xác minh chính xác ý định của quân đội VNCH đối với vùng cao nguyên.
Liên lạc với tướng Đặng Văn Quang (cố vấn an ninh của Tổng thống Thiệu) và tướng Lê Nguyên Khang (phụ tá hành quân của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH), Polgar cùng nhận được câu trả lời: không biết gì về quyết định triệt thoái quân đội VNCH khỏi cao nguyên.
Tướng Khang nói với Polgar rằng vừa gặp tướng Cao Văn Viên buổi sáng, và tướng Viên nói rằng chẳng có vấn đề gì cả. Quyền trưởng Phái bộ Mỹ tại Sài Gòn, Wolfgang Lehmann, cũng nói với Polgar là vừa gặp Tổng thống Thiệu lúc 9 giờ sáng - có lẽ lúc ấy báo cáo của Stephens về cuộc họp ở Cam Ranh chưa đến tay Polgar - và ông Thiệu không nhắc gì đến chủ đề này.
Do vậy Polgar suy đoán rằng ông Thiệu có thể đã định chuẩn y về nguyên tắc kế hoạch của tướng Phú là di tản khỏi Plâyku và Kontum để tập trung binh lực nhằm phản công giành lại Ban Mê Thuột. Với cách giải thích này thì tướng Phú đã hiểu sai và hành động hấp tấp dẫn đến hậu quả thê thảm.
Về việc Chính quyền Sài Gòn không hề có động tác thông báo cho Phái bộ Mỹ, Polgar cho rằng không thể xảy ra việc rất nhiều đầu mối của Phái bộ Mỹ biết mà lại cố tình lờ đi. Nhận định của Polgar là thực sự họ không hề biết điều mà tướng Phú đưa ra trong kế hoạch.
Nhưng sau đó, ngày 17/3/1975, tướng Cao Văn Viên trả lời cơ quan tùy viên quân sự Mỹ một sự thật rằng việc triệt thoái quân khỏi cao nguyên đã được thực hiện.
Trưởng cơ quan tùy viên quân sự Mỹ, tướng Homer Smith chất vấn tướng Viên vì sao nói không có chuyện gì khi hai người gặp nhau tại cuộc họp ở Cam Ranh ngày 14/3, thì ông Viên đáp: “Tôi không có sự lựa chọn nào khác, Tổng thống Thiệu trực tiếp ra lệnh và không cho để lộ quyết định”.
Cuộc rút chạy khỏi Plâyku của quân lực VNCH buộc CIA tại Sài Gòn lo ngại một cuộc tấn công mở rộng về phía nam của quân đội Bắc Việt. Ngày 14/3, trong khi ông Thiệu họp kín với các tướng lĩnh tại Cam Ranh, Polgar đã đánh giá được chuyện Ban Mê Thuột thất thủ và áp lực của quân đội Bắc Việt đang tăng rất cao ở Tây Ninh.
Polgar cho rằng cuộc khủng hoảng của VNCH lúc này là tồi tệ nhất kể từ năm 1965 (sau khi quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam), vì thế ông ta báo cáo về tổng hành dinh CIA ở Langley rằng tình hình ác liệt hơn cả hồi mùa hè năm 1972.
Sau đó, tướng Quang báo với Tổng thống Thiệu chuyện chưa từng xảy ra là “quân đội chán nản, thậm chí tuyệt vọng”, còn tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, nhận định, việc mất cao nguyên là sự tàn phá tâm lý ghê gớm đối với binh sĩ VNCH.
Sự sụp đổ cực kỳ nhanh chóng của quân lực VNCH không chỉ bởi sức mạnh tổng tấn công của quân đội Bắc Việt, mà còn vì lý do VNCH bỏ ngỏ trận địa cho bộ đội Bắc Việt.
Với việc cả Vùng chiến thuật 1 và 2 đều nằm trọn trong tay quân đội Bắc Việt, Văn phòng CIA Sài Gòn gửi báo cáo về Mỹ và muốn tổng hành dinh CIA hiểu rằng, thảm họa này hoàn toàn là do ông Thiệu quyết định ngược đời và sự kém cỏi của các tướng lĩnh dưới quyền ông ta.
Các tướng lĩnh vừa kém năng lực chỉ huy, vừa kém đạo đức, vô kỷ luật, ích kỷ.v.v... và .v.v...Thủ tướng Trần Thiện Khiêm liên đới trong chuyện này chỉ là việc phải tìm bằng được một kẻ giơ đầu chịu báng. Lúc này người Mỹ bắt đầu phàn nàn về VNCH như là “đứa con ngoài giá thú” của Quốc hội Mỹ, gây phiền toái và “phá gia chi tử”!
Còn Hà Nội có thể hài lòng với những gì họ đạt được. Với tình trạng kiệt quệ của VNCH lúc này, liệu Hà Nội có còn quan tâm đến đàm phán với VNCH nữa không?
Hà Nội giờ đây rất mạnh so với cuối năm 1972-khi B52 rải thảm bom xuống Hà Nội, còn Sài Gòn thì rất yếu. “Chúng ta đã thoát khỏi giai đoạn của Kissinger và đi vào giai đoạn của Quốc hội Mỹ, nhưng chúng ta chẳng thể làm được gì nữa rồi” - CIA Sài Gòn viết trong báo cáo gửi Tổng hành dinh như thế.
Ngày 19/3/1975, tổng hành dinh CIA thông báo cho Polgar về một cuộc họp nhiều bên với nội dung "cả Bộ Quốc phòng và đại diện Chính phủ Mỹ đều đánh giá cao báo cáo của CIA Sài Gòn... hầu hết những nguồn tin về kế hoạch và hành động của miền Nam Việt Nam chỉ có trong sáu ngày gần nhất mà thôi”.
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Graham Martin về Mỹ để chữa bệnh ngắn ngày, và việc giao dịch cấp cao tại Việt Nam với Tổng thống Thiệu được giao cho ông Lehmann, quyền Trưởng Phái bộ Mỹ tại Sài Gòn.
Báo cáo đáp lại tổng hành dinh CIA, Polgar miêu tả Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn lúc ấy cứ như “con tàu không người lái” suốt những ngày Đại sứ Martin vắng mặt. Lehmann thì không chỉ đạo được. Số nhân viên cao cấp trong sứ quán thì vừa lơ là vừa sai lầm trong việc nhận định các tình huống mới, cũng như hệ lụy của nó.
Theo CIA Sài Gòn, các quan chức Sứ quan Mỹ chỉ đơn thuần “phản ánh thời tiết ở Washington”, họ vẫn chỉ bận tâm với nhóm đối lập không thân cộng sản chống Chính quyền Sài Gòn mà thôi. Nhưng điều đó không còn là vấn đề nữa.
Tổng thống Thiệu không thích cách điều hành trong áp lực ngoại giao nữa. Vì thế, Sứ quán Mỹ chỉ nắm được chút ít thông tin giá trị từ quan chức cấp thấp hơn mà thôi.
Cũng trong ngày 20/3, tổng hành dinh CIA có được thông tin về kế hoạch tổng quát của Thiệu, trong đó có việc khởi động một chương trình di tản bằng đường hàng không sang các nước châu Á (đồng minh của Mỹ) trong tình huống phải tị nạn. Vậy CIA Sài Gòn có thể nắm được Thiệu, hoặc ít nhất là Khiêm (Thủ tướng Trần Thiện Khiêm) hoặc tướng Đặng Văn Quang không?
Báo cáo trả lời của Polgar đề cập cuộc gặp giữa Lehmann với Tổng thống Thiệu cùng ngày 20/3, trong đó có lưu ý đến một chiến dịch tái chiếm mới và nói nó được vạch ra một cách sơ sài nên chưa sẵn sàng báo cho người Mỹ theo kênh chính thức.
Polgar bèn viết trong báo cáo rằng, chúng tôi mong một điều may mắn đối với Chương trình Di tản Châu Á, nhưng nói thẳng ra nó chẳng có gì khác biệt.
Xe tăng của Bắc Việt không thể nào dừng bánh chỉ với sự cảm thông mà phải có súng chống tăng và máy bay mới chặn được xe tăng. Sai lầm của Mỹ là tuân thủ từng điều một của Hiệp định Paris, tức cản trở việc Bắc Việt dốc toàn lực về quân sự thì lại sẽ bỏ lơi việc kiến tạo một nền độc lập không cộng sản ở Nam Việt Nam.
Tổng hành dinh CIA xác nhận điều đó nhưng lại viện dẫn trách nhiệm sắp xếp chuyện này là của cấp cao hơn (ám chỉ ông Kissinger và Tổng thống Ford). Và bóng ma thảm họa sụp đổ của chính quyền VNCH ngày càng lộ rõ ở Sài Gòn sau cuộc tháo chạy thê thảm khỏi Plâyku và Kontum vào ngày 21/3.
Sau đó Tổng thống Thiệu đổ tội thất thủ cao nguyên lên đầu tướng Phú, khiến ông này từ chức và uống thuốc độc tự tử vào ngày 29/4/1975.